Tòa Soạn - Bạn đọc
Luật Khiếu nại: Tạo điều kiện thuận lợi cho công dân, cơ quan, tổ chức thực hiện quyền khiếu nại
Ngày 11/11/2011, tại kỳ họp thứ 2, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII đã thông qua Luật Khiếu nại. Luật này có hiệu lực thi hành từ ngày 1/7/2012.
Việc xây dựng và ban hành Luật Khiếu nại nhằm thể chế hóa chủ trương, quan điểm của Đảng về công tác giải quyết khiếu nại, đáp ứng yêu cầu thực tiễn, góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động quản lý Nhà nước trong giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hóa - hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.
Luật Khiếu nại năm 2011 gồm 8 chương và 70 điều. Theo đó, quy định khiếu nại là việc cá nhân, cơ quan, tổ chức theo thủ tục do Luật Khiếu nại quy định; đề nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền xem xét lại quyết định hành chính, hành vi hành chính của cơ quan hành chính Nhà nước, của người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính Nhà nước; khiếu nại và giải quyết khiếu nại quyết định kỷ luật cán bộ, công chức; tiếp công dân; quản lý và giám sát công tác giải quyết khiếu nại. Như vậy, so với Luật Khiếu nại, tố cáo hiện hành thì Luật Khiếu nại quy định rõ hơn về phạm vi điều chỉnh.
Về trình tự khiếu nại: Luật Khiếu nại, tố cáo quy định: khi có căn cứ cho rằng quyết định hành chính, hành vi hành chính là trái pháp luật, xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của mình thì trong mọi trường hợp, người khiếu nại phải khiếu nại lần đầu với người đã ra quyết định hành chính hoặc cơ quan có cán bộ, công chức có hành vi hành chính. Quy định này đã hạn chế quyền được khởi kiện vụ án hành chính tại tòa án của công dân.
Để khắc phục hạn chế trên, theo quy định của Luật Khiếu nại thì khi khiếu nại lần đầu, người khiếu nại có quyền khiếu nại trực tiếp đến người có quyết định hành chính, hành vi hành chính hoặc có quyền khởi kiện vụ án hành chính tại tòa án, không nhất thiết phải khiếu nại với người có quyết định hành chính, hành vi hành chính bị khiếu nại như trước đây. Việc khởi kiện vụ án hành chính tại tòa án vẫn có thể thực hiện ở bất kỳ giai đoạn nào trong quá trình giải quyết khiếu nại (Điều 7).
Quyền, nghĩa vụ của người khiếu nại: Đối với người khiếu nại, so với Luật Khiếu nại, tố cáo, Luật Khiếu nại đã quy định bổ sung người khiếu nại có thêm các quyền: Được ủy quyền cho luật sư khiếu nại để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình. Trường hợp người khiếu nại là người được trợ giúp pháp lý theo quy định của pháp luật thì được nhờ trợ giúp viên pháp lý tư vấn về pháp luật hoặc ủy quyền cho trợ giúp viên pháp lý khiếu nại để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình; tham gia đối thoại hoặc ủy quyền cho người đại diện hợp pháp tham gia đối thoại. Người khiếu nại cũng được biết, đọc, sao chụp, sao chép tài liệu, chứng cứ do người giải quyết khiếu nại thu thập để giải quyết khiếu nại (trừ thông tin, tài liệu thuộc bí mật Nhà nước). Được quyền yêu cầu cá nhân, cơ quan, tổ chức có liên quan đang lưu giữ, quản lý thông tin, tài liệu liên quan tới nội dung khiếu nại cung cấp thông tin, tài liệu đó cho mình trong thời hạn 7 ngày, kể từ ngày có yêu cầu để giao nộp cho người giải quyết khiếu nại (trừ thông tin, tài liệu thuộc bí mật Nhà nước). Được yêu cầu người giải quyết khiếu nại áp dụng các biện pháp khẩn cấp để ngăn chặn hậu quả có thể xảy ra do việc thi hành quyết định hành chính bị khiếu nại (Điều 12).
Quyền, nghĩa vụ của người bị khiếu nại: Đối với người bị khiếu nại, so với Luật Khiếu nại, tố cáo, Luật Khiếu nại đã quy định bổ sung thêm người bị khiếu nại có quyền được biết, đọc, sao chụp, sao chép các tài liệu, chứng cứ do người giải quyết khiếu nại thu thập để giải quyết khiếu nại (trừ thông tin, tài liệu thuộc bí mật Nhà nước). Yêu cầu cá nhân, cơ quan, tổ chức có liên quan đang lưu giữ, quản lý thông tin, tài liệu liên quan tới nội dung khiếu nại cung cấp thông tin, tài liệu đó cho mình trong thời hạn 7 ngày, kể từ ngày có yêu cầu để giao cho người giải quyết khiếu nại (trừ thông tin, tài liệu thuộc bí mật Nhà nước). So với Luật Khiếu nại, tố cáo, thì Luật Khiếu nại cũng đã bổ sung người bị khiếu nại có nghĩa vụ tham gia đối thoại hoặc ủy quyền cho người đại diện hợp pháp tham gia đối thoại; chấp hành quyết định xác minh nội dung khiếu nại của cơ quan, đơn vị có thẩm quyền giải quyết khiếu nại.
Trình tự, thủ tục giải quyết khiếu nại: Luật Khiếu nại đã quy định đối với giải quyết khiếu nại lần đầu thì có thể đối thoại, còn đối với giải quyết khiếu nại lần hai thì bắt buộc phải đối thoại. Điểm này ngược lại với quy định trong Luật Khiếu nại, tố cáo (Luật Khiếu nại, tố cáo quy định đối với giải quyết khiếu nại lần đầu thì bắt buộc phải đối thoại, còn đối với giải quyết khiếu nại lần thứ hai thì có thể đối thoại). Luật Khiếu nại quy định đối với vụ việc khiếu nại phức tạp, nếu thấy cần thiết, người giải quyết khiếu nại lần thứ hai thành lập Hội đồng tư vấn để tham khảo ý kiến giải quyết khiếu nại. Để bảo đảm tính minh bạch trong giải quyết khiếu nại, người giải quyết khiếu nại lần thứ hai phải công bố công khai quyết định giải quyết khiếu nại theo một hoặc một số hình thức công khai gồm: công bố tại cuộc họp cơ quan, tổ chức nơi người bị khiếu nại công tác; niêm yết tại trụ sở làm việc hoặc nơi tiếp công dân của cơ quan, tổ chức đã giải quyết khiếu nại; thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng. Đây chính là những điểm mới trong trình tự, thủ tục giải quyết khiếu nại của Luật Khiếu nại.
Nhuận Phát
- Quốc hội thảo luận tại hội trường về Dự án Luật Cán bộ, công chức (sửa đổi)
- Bộ Quốc phòng kiểm tra các mặt công tác tại một số đơn vị đóng quân trên địa bàn Tây Nam Bộ
- Chủ tịch UBND tỉnh Bạc Liêu tổ chức đối thoại với công dân tại Hà Nội
- Phó Bí thư Thường trực Tỉnh ủy - Huỳnh Quốc Việt: Các đơn vị mới thành lập phải xây dựng giải pháp đột phá cụ thể cho nhiệm kỳ mới
- Cần 300 triệu đồng sửa cầu treo Phường 8