Đời sống - Xã hội
Lời giải nào để nông dân không phải ly hương?
Sau khi Báo Bạc Liêu thực hiện chuyên đề “Gắn đào tạo nghề với nâng cao chỉ số PCI: Những nghịch lý kéo dài”, đã đón nhận được sự quan tâm của dư luận và đây thật sự trở thành nỗi trăn trở của nhiều người. Từ đây đã đặt ra vấn đề: Làm gì để giữ chân nông dân lại địa phương và hạn chế tình trạng “chảy máu” nguồn nhân lực, nhất là tình trạng nông dân “bỏ ruộng lên thành” kiếm sống?
Lao động nông thôn bỏ quê lên thành thị kiếm sống với việc gánh vật liệu xây dựng.
ÍT ĐẤT SẢN XUẤT VẪN SỐNG ĐƯỢC
Gắn đào tạo nghề với nâng cao chỉ số PCI hay vấn đề tạo việc làm ổn định cho người lao động tại địa phương, trong đó có nông dân, theo nhiều địa phương, đây là vấn đề cần có ngay các giải pháp khi người nông dân được xác định là chủ thể trong thực hiện thắng lợi mục tiêu công nghiệp hóa - hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn.
Trong đó, có một thực trạng đáng quan tâm là tình trạng nông dân bỏ đất, hoặc cho thuê đất rồi cả gia đình dắt díu nhau đi nơi khác kiếm sống. Đơn cử như trường hợp của gia đình ông N.V.K ở ấp Ninh Chài (xã Ninh Quới A, huyện Hồng Dân). Cả gia đình ông K. có 4 người đều kéo nhau đi tỉnh Bình Dương kiếm sống, còn 6 công đất ruộng thì cho người khác thuê với giá rẻ. Qua điều tra thực tế cho thấy, phần lớn những hộ xa xứ mưu sinh không phải họ không đất sản xuất mà vì diện tích nhỏ, trung bình từ 4 - 6 công thì gần như đều cho thuê. Ông Huỳnh Bá Thuận - Bí thư Đoàn thị trấn Châu Hưng (huyện Vĩnh Lợi) cho biết: “Những hộ nào có hơn chục công đất hay vài chục công đất thì còn giữ và gắn bó với nghề làm ruộng, còn hộ nào có dưới 10 công thì gần như đều cho thuê đất và đi tỉnh khác kiếm sống. Ngay thị trấn Châu Hưng cũng có đến 50% đoàn viên - thanh niên bỏ sinh hoạt Đoàn để đi nơi khác làm ăn, mặc dù gia đình của họ đều có ruộng”.
Việc nông dân cho thuê đất thường kéo theo một hệ lụy là năm nào thời tiết thuận mùa thì đất cho thuê được đưa vào sản xuất, còn không thì đất bị bỏ hoang. Và bản thân họ cũng không thể mặc cả với các hộ thuê đất hay cò kè giá thuê mà chủ yếu cho thuê theo kiểu “kiếm thêm đồng nào hay đồng nấy”. Vấn đề đặt ra ở đây, không lẽ nông dân nào có ít đất cũng phải bỏ xứ đi nơi khác mưu sinh? Vậy, để hóa giải thách thức này thì cần giải pháp nào?
Phải khẳng định rằng, việc nông dân không có đất hoặc ít đất sản xuất phải bỏ xứ đi nơi khác mưu sinh có trách nhiệm của ngành quản lý và các địa phương. Đó là việc chưa làm tốt công tác định hướng, kết nối nông dân lại với nhau và nhất là chưa xây dựng được các mô hình giúp nông dân sống được dù có ít đất sản xuất. Trong khi đó, có những nông dân chỉ có một công đất, nhưng nhờ lựa chọn mô hình sản xuất phù hợp đã khai thác hết các tiềm năng, lợi thế từ sản xuất nông nghiệp. Như trường hợp của gia đình ông Huỳnh Thanh Tú (ấp Xẻo Chích, thị trấn Châu Hưng, huyện Vĩnh Lợi), nếu như trước đây gia đình ông phải kiếm sống nơi đất khách quê người, thì từ năm 2015 đến nay gia đình ông đã thoát nghèo đều nhờ vào nghề trồng rau má. Với một công đất trồng rau má, mỗi ngày gia đình ông có thu nhập từ 600 - 800 ngàn đồng.
Ông Huỳnh Thanh Tú cho biết: “Gia đình không có nhiều đất sản xuất thì phải lựa chọn mô hình nào cho phù hợp, chứ cứ bám lấy cây lúa thì mỗi năm cho thu nhập cao lắm cũng khoảng 50 triệu đồng thì làm sao nuôi sống cả gia đình. Vì vậy, tôi đã tìm tòi và chọn phát triển cây rau má, vì trồng rau má không cần diện tích nhiều, ít tiền đầu tư và mỗi tháng chỉ tốn khoảng 300 ngàn đồng tiền phân bón, còn rau má sau khi cắt xong lại mọc lên do hạt rau má rơi xuống. Với giá rau má được thương lái thu mua từ 15 - 18 ngàn đồng/kg, mỗi tháng gia đình tôi thu lãi gần 20 triệu đồng; và tính ra một công rau cho tổng thu nhập bằng cả chục công ruộng”. Riêng phần đất bao quanh rẫy rau má, ông Tú trồng thêm dừa xiêm lùn và mỗi năm thu hoạch 4 lần, giúp gia đình ông kiếm thêm vài chục triệu đồng/năm. Với lợi nhuận mang lại từ rau má, ông Tú đã sang thêm một công đất và đang phát triển cây bưởi da xanh gắn với phát triển mô hình du lịch sinh thái vườn.
Qua đó cho thấy, ít đất sản xuất vẫn có thể tạo ra lợi nhuận cao và việc làm hàng ngày nếu như xây dựng được mô hình sản xuất đáp ứng được yêu cầu của thị trường. Do vậy, trong thực hiện tái cơ cấu sản xuất nông nghiệp, ngành Nông nghiệp cũng cần nghiên cứu các mô hình sản xuất giúp nông dân phá thế độc canh cây lúa, bỏ lối tư duy chỉ biết dựa vào cây lúa. Đồng thời, có giải pháp gắn kết những nông dân ít đất sản xuất lại với nhau thông qua tập trung ruộng đất, nhằm hạn chế tình trạng sản xuất manh mún và tạo ra những mô hình không cần sử dụng nhiều đất nhưng cho lợi nhuận cao và giải quyết việc làm thường xuyên cho nông dân, nhất là các mô hình trang trại, kinh tế hợp tác, hợp tác xã…
Nhiều phụ nữ huyện Phước Long tạo được thu nhập ổn định từ việc cắt lục bình bán cho các cơ sở đan đát, công ty xuất khẩu mỹ nghệ.
ĐA DẠNG HÓA CÁC MÔ HÌNH SINH KẾ
Thời gian qua, có một thực trạng đáng buồn là phần lớn lao động xa xứ mưu sinh tập trung nhiều ở chị em phụ nữ. Trong tổng số hơn 16.520 lao động ra ngoài tỉnh năm 2020 thì có đến gần 9.230 là lao động nữ. Trên thực tế, lao động nữ tham gia vào thị trường lao động so với nam giới thường chịu nhiều thiệt thòi, vì ngoài trực tiếp lao động, họ phải đảm nhiệm thiên chức làm mẹ, làm vợ. Trong đó, có nhiều phụ nữ vì mưu sinh đành phải bỏ con lại quê nhà nhờ ông bà chăm sóc hộ. Ngoài ra, lao động nữ ở các khu công nghiệp còn bị đẩy vào cảnh “phòng không chiếc bóng” do đặc thù công việc nên họ không có thời gian tìm kiếm bạn đời và không được chăm sóc, yêu thương như những chị em phụ nữ khác.
Ông Huỳnh Thanh Tú với vườn bưởi da xanh sẽ giúp gia đình ông phát triển mô hình du lịch sinh thái. Ảnh: L.D
Điều đáng mừng là tình trạng trên cũng được các cấp, các ngành nhìn thấy. Để góp phần giải quyết nạn lao động nữ phải xa quê kiếm sống, Hội LHPN huyện Phước Long đã xây dựng các mô hình tạo sinh kế cho chị em phụ nữ nghèo, đặc biệt là dành cho phụ nữ không có đất sản xuất. Hiện Hội LHPN huyện đang xây dựng và nhân rộng mô hình trồng và cắt lục bình cung cấp nguyên liệu cho các công ty đan đát xuất khẩu của tỉnh Hậu Giang. Bà Trương Thanh Xuân - Chủ tịch Hội LHPN huyện Phước Long, cho biết: “Với mô hình này, Hội đã thành lập 3 tổ đan đát ở ấp Long Đức, Long Thành và thị trấn Phước Long với mỗi tổ hơn 10 lao động. Bằng việc tận dụng diện tích mặt nước và lục bình mọc đầy ở các kênh thủy lợi, mỗi lao động nữ đi cắt lục bình có thu nhập khoảng 200 ngàn đồng/ngày. Không chỉ thế, mô hình này còn góp phần khai thác và tận dụng nguồn nguyên liệu mà lâu nay phải tốn tiền đầu tư cho việc xử lý cắt bỏ đi, nhất là tình trạng lục bình làm tắc nghẽn dòng chảy và gây cản trở giao thông thủy”. Ngoài mô hình trên, Hội LHPN huyện Phước Long cũng đang triển khai nhiều mô hình sinh kế khác cho chị em phụ nữ…
Thực tiễn cho thấy, việc đa dạng hóa sinh kế cho nông dân sẽ mang lại nhiều lợi ích thiết thực. Bởi ngoài giải quyết tốt bài toán “ly nông bất ly hương”, còn tác động trực tiếp đến việc thực hiện tốt các chính sách khác. Cụ thể là ở nhiều địa phương hiện nay, lao động bỏ xứ đi nơi khác kiếm sống cũng đồng nghĩa với việc họ không tham gia thực hiện tốt nghĩa vụ của mình đối với địa phương. Như trong đầu tư tín dụng chính sách, toàn tỉnh có hơn 8.910 món khách hàng bỏ xứ và không thanh toán nợ với Ngân hàng Chính sách xã hội với tổng nợ xấu gần 130 tỷ đồng và con số này chiếm hơn 40%/tổng nợ xấu. Ở nhiều địa phương hiện nay, khi cán bộ đến thanh toán nợ thì chủ hộ chỉ còn trơ cái nền nhà và số nợ này không biết bao giờ mới xử lý được khi hộ vay đã bỏ xứ đi nơi khác mưu sinh!
Thiết nghĩ đã đến lúc ngành quản lý và các địa phương cần quan tâm nhiều hơn đến việc xây dựng các mô hình tạo sinh kế và việc làm cho lao động nông thôn. Đây chính là giải pháp mang tính nền tảng cho phát triển bền vững khi sản xuất nông nghiệp đến nay vẫn là trụ cột quan trọng nhất của nền kinh tế.
LƯ DŨNG
* Ông Trương Thanh Nhã - Chủ tịch Hội Nông dân tỉnh: Thực hiện nhiều chính sách hỗ trợ nông dân tăng thu nhập và việc làm
Bạc Liêu giàu tiềm năng, thế mạnh cho sản xuất nông nghiệp và đây là tiềm năng tạo ra số lượng việc làm lớn cho lao động địa phương. Tuy nhiên, hiện nay ở vùng nông thôn đang diễn ra tình trạng nông dân, nhất là giới trẻ bỏ ruộng, bỏ quê, không mặn mà với sản xuất nông nghiệp mà đến những thành phố lớn để tìm việc làm ngày càng tăng. Vấn đề này đã làm ảnh hưởng không nhỏ đến ổn định xã hội, hoạch định chính sách phát triển và khai thác, phát huy nguồn lao động tại chỗ…
Trước thực trạng đó, Ban Thường vụ Hội Nông dân tỉnh đã triển khai nhiều giải pháp nhằm tạo thêm thu nhập và việc làm cho nông dân, hạn chế tình trạng nông dân ly hương. Cụ thể, Hội Nông dân tỉnh đã chỉ đạo các ban, bộ phận và các cấp Hội trong tỉnh tăng cường phối hợp với các ngành liên quan, các công ty, doanh nghiệp triển khai các chương trình, dự án, tổ chức tập huấn, hướng dẫn kỹ thuật theo hướng cầm tay chỉ việc, gắn với điều kiện thực tế sản xuất của nông dân và có ứng dụng khoa học - kỹ thuật tiên tiến để tạo sự chuyển biến lớn trong sản xuất với hiệu quả kinh tế cao. Từ năm 2020 đến nay, Hội Nông dân tỉnh đã phối hợp với Công ty cổ phần Đầu tư phát triển nông nghiệp - thủy sản Bạc Liêu triển khai chương trình cung ứng vật tư nông nghiệp chất lượng với giá rẻ hơn thị trường; phối hợp với Công ty TNHH MTV Thủy sản Bình Minh hỗ trợ trên 1 triệu con tôm giống gia hóa, chế phẩm sinh học và tập huấn hướng dẫn kỹ thuật trực tiếp cho các hộ dân; phối hợp với Viện Nuôi trồng thủy sản II hỗ trợ trên 300 ngàn con tôm càng xanh giống và hướng dẫn kỹ thuật nuôi, kỹ thuật bẻ càng để tôm tăng trưởng nhanh hơn… Từ những hình thức hỗ trợ này đã giúp nông dân phát huy được hiệu quả sản xuất và tạo thêm việc làm mới cho nông dân.
Cùng với đó, Hội Nông dân tỉnh còn gắn kết nông dân với nghề nông thông qua phối hợp với Trường đại học Bạc Liêu, Công ty cổ phần Đầu tư phát triển nông nghiệp - thủy sản Bạc Liêu tổ chức đào tạo đại học chuyên ngành Trồng trọt - bảo vệ thực vật trong 4 năm cho các sinh viên là con em của hội viên nông dân theo phương thức Hội Nông dân lựa chọn con người, Trường đại học đào tạo kiến thức, Công ty hỗ trợ học phí, thực hành và nhận vào làm việc sau khi ra trường. Đồng thời, thành lập Chi hội nghề nghiệp trong Trường đại học để kết nối chặt chẽ giữa khoa học - kỹ thuật và thực tế sản xuất, với mong muốn xây dựng một thế hệ nông dân trẻ lành nghề, đam mê nông nghiệp và phục vụ tại địa phương. Cũng như phát huy hiệu quả từ nguồn vốn Quỹ hỗ trợ nông dân gắn với nhiều mô hình, dự án phát triển kinh tế…
Với những giải pháp cơ bản trên, Hội Nông dân tỉnh tin tưởng đây sẽ là yếu tố thu hút và giữ chân lao động nông thôn, giúp nông dân phát triển kinh tế ngay trên quê hương của mình mà không cần phải xa xứ mưu sinh.
* Bà Trương Hồng Trang - Chủ tịch Hội LHPN tỉnh: Cần có nhiều chính sách hỗ trợ phụ nữ phát triển kinh tế và giải quyết việc làm
Xác định việc hỗ trợ, chăm lo cho phụ nữ phát triển kinh tế là nhiệm vụ trọng tâm xuyên suốt, thời gian qua, các cấp Hội Phụ nữ trong tỉnh đã quan tâm chỉ đạo, triển khai thực hiện với nhiều cách làm mới, sáng tạo. Chẳng hạn, Hội đã hướng dẫn các tầng lớp phụ nữ phát huy nội lực, tinh thần hợp tác, tương thân tương ái, hỗ trợ nhau phát triển kinh tế gia đình, tiếp tục thực hiện hoạt động hỗ trợ phụ nữ giảm nghèo bền vững, ưu tiên hộ nghèo do phụ nữ làm chủ. Các phong trào “Phụ nữ giúp nhau phát triển kinh tế”, “Phụ nữ làm kinh tế giỏi” được các cấp Hội tiếp tục phát động và triển khai rộng khắp trong toàn tỉnh, được các tầng lớp phụ nữ hưởng ứng tích cực và thực hiện có hiệu quả…
Tuy nhiên theo báo cáo, tính đến cuối năm 2020, tỷ lệ thất nghiệp chiếm 3,26%, tương đương 17.124 người trong độ tuổi lao động. Trong đó, tỷ lệ nữ trong độ tuổi lao động bị thất nghiệp là 8.874 người (chiếm 51,8%) so với tổng số lao động trong độ tuổi bị thất nghiệp. Ngoài ra, thực tế hiện nay thì phụ nữ trong độ tuổi lao động đi làm ăn xa chiếm số lượng rất đông.
Để giải quyết những bất cập này và hạn chế chị em phụ nữ phải xa xứ mưu sinh, Hội LHPN tỉnh sẽ chỉ đạo các cấp Hội khảo sát nhu cầu việc làm, nhu cầu muốn thay đổi cuộc sống của phụ nữ tại địa phương, để làm cơ sở phối hợp với Sở LĐ-TB&XH, ngành Nông nghiệp, Trung tâm Giáo dục - Dạy nghề các cấp tập trung mở các lớp chuyển giao khoa học - kỹ thuật, đào tạo nghề cho lao động nữ nông thôn gắn với chuyển dịch cơ cấu theo kế hoạch của HĐND, UBND tỉnh. Sau đào tạo, chị em được hướng dẫn xây dựng các mô hình kinh tế, đặc biệt chú trọng mô hình kinh tế tập thể, kết nối các doanh nghiệp trong và ngoài tỉnh thu mua các sản phẩm chị em phụ nữ đang sản xuất, tạo đầu ra ổn định.
Cùng với đó, tăng cường công tác chỉ đạo triển khai thực hiện đề án “Hỗ trợ phụ nữ khởi nghiệp” (Đề án 939) hiệu quả thông qua các chính sách ở địa phương, các ngân hàng, các đơn vị tín dụng, các nguồn vốn Hội quản lý và các nguồn lực huy động trong nội bộ hội viên hỗ trợ phụ nữ thực hiện các mô hình phát triển kinh tế tại địa phương.
K.T (thực hiện)
- Trao 500 suất học bổng cho học sinh khó khăn nhân sự kiện chào mừng Bạc Liêu - Cà Mau hợp nhất
- Công bố và trao các nghị quyết, quyết định về sắp xếp đơn vị hành chính và kiện toàn bộ máy tỉnh Cà Mau
- Bạc Liêu long trọng họp mặt lãnh đạo qua các thời kỳ trước thềm hợp nhất với Cà Mau
- Treo cờ Tổ quốc chào mừng sự kiện hợp nhất tỉnh Bạc Liêu và tỉnh Cà Mau
- Bí thư Tỉnh ủy Bạc Liêu - Lữ Văn Hùng: Đưa bộ máy mới vận hành hiệu quả, tạo ra những đột phá mới