Tiêu điểm
Xuất khẩu lô gạo phát thải thấp đầu tiên sang thị trường Nhật Bản: Tư duy mới cho hạt gạo vươn xa
Sự kiện Hiệp hội ngành hàng Lúa gạo Việt Nam (gọi tắt là Hiệp hội) phối hợp với Công ty cổ phần Nông nghiệp công nghệ cao Trung An (TP. Cần Thơ) tổ chức Lễ xuất khẩu lô “Gạo Việt xanh phát thải thấp” đầu tiên sang Nhật Bản đánh dấu một bước ngoặt quan trọng của ngành Nông nghiệp. Đây cũng được xem là bước tiến ấn tượng trong sản xuất lúa gạo từ Đề án 1 triệu héc-ta lúa chất lượng cao đang triển khai ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL).
Lễ xuất khẩu lô “Gạo Việt xanh phát thải thấp” đầu tiên sang thị trường Nhật Bản.
XUẤT KHẨU GẠO VIỆT XANH
Nhằm phục vụ kịp thời cho Đề án 1 triệu héc-ta lúa chất lượng cao, Hiệp hội đã tiến hành xây dựng nhãn hiệu “Gạo Việt xanh phát thải thấp” với sự phối hợp, hỗ trợ của các cơ quan thuộc Bộ Nông nghiệp và Môi trường, các tổ chức quốc tế gồm: Viện Nghiên cứu lúa quốc tế, Tổ chức Phát triển Hà Lan (Dự án Chuyển đổi chuỗi giá trị lúa gạo) và Ngân hàng Thế giới …
Nhãn hiệu “Gạo Việt xanh phát thải thấp” được Hiệp hội cấp cho sản phẩm gạo sản xuất theo quy trình kỹ thuật của Đề án 1 triệu héc-ta lúa chất lượng cao được chính quyền và ngành Nông nghiệp địa phương (cấp xã), hoặc tổ chức quốc tế chuyên ngành xác nhận, đảm bảo nguồn gốc (nơi sản xuất lúa, tên giống lúa, mùa vụ) và việc tuân thủ quy trình kỹ thuật sản xuất lúa chất lượng cao và phát thải thấp của Đề án 1 triệu héc-ta lúa chất lượng cao.
Sau khi ban hành quy chế sử dụng nhãn hiệu, Hiệp hội đã cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng nhãn hiệu “Gạo Việt xanh phát thải thấp” cho 7 doanh nghiệp với tổng lượng gạo khoảng 20.000 tấn. Trong đó, Công ty cổ phần Nông nghiệp công nghệ cao Trung An được cấp giấy chứng nhận và đã hợp tác để xuất khẩu lô hàng 500 tấn “Gạo Việt xanh phát thải thấp” sang thị trường Nhật Bản.
Việc xuất khẩu lô gạo mang nhãn hiệu “Gạo Việt xanh phát thải thấp”, trong đó có lô gạo xuất khẩu đầu tiên vào Nhật Bản minh chứng Việt Nam là nước đầu tiên trên thế giới đưa gạo phát thải thấp ra thị trường xuất khẩu và cũng là nước tiên phong nâng tầm hạt gạo, mở ra sức cạnh tranh về giá trị, chất lượng của hạt gạo được sinh ra trên vùng đất Chín Rồng. Đây không chỉ là niềm vui của nông dân, doanh nghiệp xuất khẩu gạo, mà còn là tiền đề trong khơi dậy phong trào thi đua sản xuất gạo phát thải thấp phù hợp với xu thế phát triển của thế giới ngay trong điều kiện biến đổi khí hậu ngày càng cực đoan.
Theo ông Trần Thanh Nam - Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường: “Việc xuất khẩu lô hàng sang thị trường Nhật Bản đã cho thấy việc chuyển đổi tư duy sản xuất của nông dân từ sản xuất nông nghiệp thuần túy sang làm kinh tế nông nghiệp, đồng thời khẳng định vai trò và giá trị của ngành hàng Lúa gạo tại vùng ĐBSCL. Việc thay đổi tư duy sản xuất này đã khai thác tối đa lợi thế về đất đai gắn với gia tăng giá trị, chuyển đổi nông nghiệp theo hướng bền vững. Cùng với đó, sự đồng hành của các doanh nghiệp trong Đề án 1 triệu héc-ta đã tạo ra vùng nguyên liệu đáp ứng các yêu cầu, tiêu chuẩn khắt khe của các thị trường. Đây là một định hướng mới ở ĐBSCL nói riêng và cả nước nói chung để tiếp tục chung sức, nhằm chuyển hướng cho ngành hàng Lúa gạo, không chỉ đảm bảo chất lượng cho Việt Nam và cả trên thế giới, cũng như đảm bảo cho các cam kết của Việt Nam với thế giới rằng, hạt gạo của Việt Nam đảm bảo các tiêu chuẩn phát triển bền vững”.
Nông dân Bạc Liêu thu hoạch lúa bán cho thương lái. Ảnh: K.T
XÂY DỰNG NỀN SẢN XUẤT LÚA CHẤT LƯỢNG CAO
Có thể nói, 2025 là năm quan trọng đánh dấu kết thúc của giai đoạn đầu Đề án 1 triệu héc-ta lúa chất lượng cao phát thải thấp vùng ĐBSCL và để đạt mục tiêu 1 triệu héc-ta lúa chất lượng cao đến năm 2030, Bộ NN-MT đã yêu cầu các địa phương mở rộng mô hình, hướng tới mục tiêu xây dựng nền sản xuất lúa chất lượng cao, thân thiện với môi trường và có khả năng cạnh tranh cao trên thị trường quốc tế. Bởi Đề án 1 triệu héc-ta lúa chất lượng cao đã thí điểm thành công trong năm 2024 và nay đang bước vào giai đoạn mở rộng. Những cánh đồng lúa chất lượng cao phát thải thấp sẽ ngày càng được nhân rộng, cùng với đó từ sự khởi đầu của nhãn hiệu “Gạo Việt xanh phát thải thấp” sẽ tiến đến phát triển nhãn hiệu chứng nhận và thương hiệu quốc gia Gạo Việt Nam các-bon thấp theo mục tiêu của Đề án 1 triệu héc-ta lúa chất lượng cao. Đồng thời, hướng tới mục tiêu vì sự phát triển bền vững, thịnh vượng của ngành Lúa gạo, nâng cao vị thế, hình ảnh lúa gạo ở vùng ĐBSCL nói riêng và của Việt Nam trên thị trường thế giới.
Song, muốn hoàn thành các mục tiêu chiến lược này, cũng cần những tư duy mới trong sản xuất lúa gạo gắn với không ngừng nâng cao chất lượng, giá trị và xây dựng niềm tin từ những liên kết bền chặt, có như vậy mới khuyến khích nông dân, doanh nghiệp tích cực tham gia Đề án. Bởi cùng với con tôm, cá tra, trái cây và các loại thủy hải sản khác, hạt gạo đã góp phần tạo sinh kế, thu nhập cho nông dân ĐBSCL. Như năm 2024, ngành gạo Việt Nam đã tạo dấu ấn đặc biệt với sản lượng xuất khẩu vượt 8 triệu tấn và cho doanh thu trên 4,5 tỷ USD, tiếp tục đưa Việt Nam giữ vững vị trí là một trong những quốc gia xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới. Đây là minh chứng cho sự nỗ lực không ngừng và mở ra kỳ vọng cho một năm mới tiếp tục gặt hái nhiều thành công. Điều đó càng khẳng định lúa gạo không chỉ là “trụ cột” của nền kinh tế nông nghiệp, mà còn là niềm tự hào của xuất khẩu Việt Nam. Thế nhưng, để nông dân thật sự làm giàu từ hạt gạo và khẳng định đúng giá trị của mặt hàng chiến lược này, gắn với phát triển nhanh cũng cần tập trung tháo gỡ các “điểm nghẽn” trong chuỗi giá trị sản xuất, nhất là đầu ra cho sản phẩm thông qua liên kết sản xuất.
Thực tiễn trong những năm qua cho thấy, liên kết sản xuất trong tiêu thụ lúa gạo là câu chuyện đáng bàn, bởi các hình thức liên kết lâu nay còn lỏng lẻo, thiếu trách nhiệm và chủ yếu thông qua hình thức đặt cọc và hình thức này gần như phổ biến hiện nay. Hình thức liên kết này được các doanh nghiệp nhỏ, hợp tác xã chưa đủ mạnh hoặc thương lái thực hiện (doanh nghiệp, hợp tác xã, thương lái ứng tiền trước cho nông dân 2 - 3 triệu đồng/ha và chờ đến lúc thu hoạch thu mua lại lúa của nông dân). Hạn chế lớn nhất của hình thức liên kết này chính là không xây dựng được cánh đồng lớn, không tạo được vùng nguyên liệu tập trung và sản phẩm làm ra không đồng nhất về chủng loại, chất lượng và không có sự ràng buộc giữa hai bên nên rất dễ bị phá vỡ hợp đồng (hợp đồng miệng hoặc ghi sổ tay). Vì vậy, cơ quan chức năng không quản lý, kiểm soát được, nông dân thực hiện chưa đồng nhất quy trình kỹ thuật khuyến cáo, khó quản lý chất lượng vật tư đầu vào và sản phẩm đầu ra, nên tính bền vững không cao. Để tạo sức bật cho hạt lúa xanh và nhân rộng ngày càng nhiều cánh đồng sản xuất lúa phát thải thấp, thiết nghĩ phải giải quyết căn cơ bài toán liên kết chuỗi trên tinh thần cộng đồng trách nhiệm và hướng đến lợi ích chung.
KIM TRUNG