Đời sống - Xã hội
10 năm thực hiện Đề án Đào tạo nghề cho lao động nông thôn: Đóng góp quan trọng cho giảm nghèo
Thực hiện Đề án Đào tạo nghề cho lao động nông thôn đến năm 2020 theo Quyết định số 1956/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ, trong 10 năm qua, Bạc Liêu đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng và góp phần tích cực vào thực hiện có hiệu quả công tác giảm nghèo, an sinh xã hội.
LĐNT được giải quyết việc làm sau đào tạo nghề tại Nhà máy may Vinatex Bạc Liêu.
ĐÀO TẠO GẮN VỚI GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM
Thực hiện Đề án Đào tạo nghề cho lao động nông thôn (ĐTN cho LĐNT), thời qua Bạc Liêu tập trung triển khai và ban hành nhiều giải pháp để thực hiện tốt đề án này. Ở giai đoạn I (2010 - 2015), Bạc Liêu đã tổ chức ĐTN cho 66.255 lao động và giai đoạn II (2016 - 2020) ĐTN cho trên 109.580 lao động. Qua đó, nâng tỷ lệ lao động qua đào tạo đến cuối năm 2020 ước đạt 63%. Đặc biệt, đã thực hiện tốt chính sách hỗ trợ ĐTN cho gần 52.200 LĐNT. Trong đó, có 945 lao động thuộc diện hưởng chính sách ưu đãi người có công với cách mạng, trên 9.500 lao động thuộc hộ nghèo, gần 4.000 lao động thuộc hộ cận nghèo, 122 người khuyết tật và số còn lại là đối tượng khác, với tổng kinh phí hỗ trợ gần 61 tỷ đồng.
Điều đáng ghi nhận, có đến 80% lao động có việc làm sau đào tạo. Để có được những kết quả đáng ghi nhận trên, UBND tỉnh, Ban chỉ đạo tỉnh đã chỉ đạo các địa phương, nhất là cơ sở lựa chọn, xây dựng mô hình đào tạo gắn với việc làm cho người lao động. Qua 10 năm thực hiện, đã có nhiều học viên được đào tạo và áp dụng thành công các kiến thức đã học vào sản xuất, chăn nuôi, trồng trọt, dịch vụ có hiệu quả như: kỹ thuật nuôi và phòng trị bệnh cho gà, vịt, heo, dê; kỹ thuật nuôi tôm thẻ, tôm sú; kỹ thuật nhân giống lúa; kỹ thuật nuôi cua biển; kỹ thuật nuôi cá nước ngọt... Mô hình đào tạo gắn với giải quyết việc làm tại chỗ cho người lao động theo hình thức gia công sản phẩm như: đan đát lục bình, đan dây nhựa, may dân dụng…
Ngoài ra, các địa phương còn tổ chức đào tạo may công nghiệp, xây dựng dân dụng, đào tạo nuôi tôm ứng dụng công nghệ cao cung ứng cho doanh nghiệp và theo đơn đặt hàng của doanh nghiệp như: Nhà máy may Vinatex Bạc Liêu, Công ty May Pinetree, Hợp tác xã xây dựng Minh Phú, các công ty, doanh nghiệp nuôi trồng thủy sản...
Một trong những thành công của công tác ĐTN cho LĐNT trong thời gian qua không chỉ dừng ở công tác giải quyết việc làm, giảm nghèo, mà còn là động lực thúc đẩy phong trào khởi nghiệp. Đơn cử như trường hợp của ông Nguyễn Thanh Hùng (xã Vĩnh Trạch Đông, TP. Bạc Liêu), vốn là hộ nghèo lại bị khuyết tật, nhưng từ khi tham gia lớp chăn nuôi dê đã giúp cho gia đình ông chỉ sau một năm đã xin thoát nghèo. Ông Nguyễn Thanh Hùng bộc bạch: “Bản thân tôi từ nhỏ đã bị khuyết tật nên không thể xin được việc làm, nhưng từ khi được xã cho đi học nghề chăn nuôi dê, gia đình tôi đã áp dụng và mỗi năm thu lãi gần 50 triệu đồng. Nuôi dê chỉ tốn tiền mua con giống, còn thức ăn thì lấy từ tự nhiên rất nhiều như: so đũa, cải tạp, cỏ… Hiện gia đình tôi đã thoát nghèo”.
Một điển hình khác là cơ sở đan đát, bán giỏ nhựa, lục bình của bà Nguyễn Thị Diễm (xã Ninh Quới A, huyện Hồng Dân). Trước đây, bà Nguyễn Thị Diễm cũng là LĐNT tham gia học nghề, đến nay đã trở thành chủ cơ sở với việc thu hút và tạo việc làm thường xuyên cho hơn 300 lao động địa phương. Qua đó, giúp nhiều chị em tăng thêm thu nhập, giải quyết thời gian nông nhàn. Riêng bản thân bà Diễm, ngoài việc quản lý cơ sở còn được mời tham gia dạy nghề cho LĐNT ở các xã, thị trấn trong huyện.
Trung tâm Khuyến nông tỉnh chuyển giao kỹ thuật nuôi tôm cho LĐNT ở huyện Hồng Dân. Ảnh: K.T
PHÁT HUY CÁC BÀI HỌC KINH NGHIỆM
Qua 10 năm triển khai thực hiện Đề án ĐTN cho LĐNT với nhiều kết quả quan trọng đã giúp tỉnh rút ra nhiều bài học kinh nghiệm cho giai đoạn tiếp theo, nhất là trong điều kiện Bạc Liêu cần nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ cho phát triển 5 trụ cột kinh tế - xã hội.
Đó là sự vào cuộc và chỉ đạo quyết liệt của cấp ủy, chính quyền, huy động được sự tham gia của cả hệ thống chính trị, phân công rõ ràng về trách nhiệm của các cơ quan và phối hợp chặt chẽ trong thực hiện thì các chính sách, hoạt động của đề án được triển khai nhanh, có hiệu quả. Bên cạnh đó, ĐTN phải gắn với thực tiễn, nhu cầu để người học thật sự hứng thú và thu được hiệu quả cao trong quá trình học. Cần đổi mới mạnh mẽ hình thức ĐTN theo yêu cầu đào tạo cho doanh nghiệp và thích ứng với trình độ của LĐNT. Cùng với các phương pháp đào tạo truyền thống, cần kết hợp các phương pháp giảng dạy tích cực, hiện đại và giúp người học được tiếp xúc trực tiếp với các loại máy móc, thiết bị, công cụ... cho từng ngành nghề được học và thực hành tại nơi sản xuất, chăn nuôi, trồng trọt, gắn với chu trình sinh trưởng của cây trồng, vật nuôi. Nội dung ĐTN không nên nặng về lý thuyết hay các kiến thức sách vở mà cần gắn lý thuyết với thực hành, sử dụng các giáo cụ trực quan sao cho dễ nắm bắt, dễ vận dụng.
Việc áp dụng những thành tựu khoa học - công nghệ (KH-CN) vào chương trình ĐTN cho LĐNT sẽ tạo động lực quan trọng để người lao động tích cực tìm tòi, sáng kiến, cải tiến kỹ thuật, ứng dụng vào sản xuất, nâng cao năng suất cây trồng, vật nuôi. Khi nhận thức đúng vai trò của KH-CN, LĐNT sẽ tìm cách thay đổi tập quán sản xuất, cách thức làm việc cho phù hợp. Vì vậy, cần có phương pháp ứng dụng thành tựu KH-CN vào ĐTN để nâng cao nhận thức, trình độ cho LĐNT.
Việc triển khai Đề án ĐTN cho LĐNT khi lồng ghép với các chương trình mục tiêu quốc gia khác, cần phải có sự nhìn nhận, đánh giá đúng ý nghĩa, tầm quan trọng của ĐTN để có cơ chế, nguồn lực đầu tư và triển khai thực hiện đạt hiệu quả tốt nhất, nhằm góp phần quan trọng nâng tay nghề, kỹ năng làm việc của người lao động, tạo sinh kế bền vững, thúc đẩy phát triển nông nghiệp, nông thôn và thực hiện tốt nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của địa phương...
Từ nay đến năm 2025 và định hướng đến năm 2030, Bạc Liêu sẽ ĐTN cho 120.000 LĐNT. Do vậy, việc phát huy các bài học kinh nghiệm và ban hành, bổ sung thêm các giải pháp phù hợp với thực tiễn sẽ góp phần quan trọng trong công tác ĐTN cho LĐNT ở giai đoạn tiếp theo.
KIM TRUNG
Ông Vương Phương Nam, Phó Chủ tịch UBND tỉnh: ĐTN phải gắn với nhu cầu doanh nghiệp và thị trường lao động
Để công tác ĐTN cho LĐNT từ nay đến năm 2025 và định hướng đến năm 2030 phát huy hiệu quả, các cấp, các ngành và địa phương phải làm thay đổi nhận thức cho LĐNT về tham gia học nghề.
Theo đó, sẽ tổ chức điều tra, khảo sát và dự báo nhu cầu học nghề của LĐNT theo từng giai đoạn gắn với nhu cầu của doanh nghiệp và thị trường lao động. Trên cơ sở này, xây dựng kế hoạch đào tạo hàng năm và trung hạn về chỉ tiêu đào tạo, nguồn lực thực hiện ĐTN cho LĐNT. Thành lập tổ chức có trách nhiệm chỉ đạo, điều hành, điều phối các hoạt động ĐTN cho LĐNT và chú trọng về chất lượng, hiệu quả trong chỉ đạo, điều phối thực hiện công tác ĐTN cho LĐNT.
Song song đó, lồng ghép, huy động, phân bổ và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực đầu tư cho công tác ĐTN cho LĐNT, trong đó có cả nguồn lực từ xã hội hóa. Đúc kết các mô hình trước đây để xây dựng các mô hình đào tạo có hiệu quả thiết thực và phấn đấu đạt đa mục tiêu như: nâng cao chất lượng nguồn nhân lực; giải quyết việc làm và tạo sinh kế của người dân; chuyển dịch cơ cấu lao động hợp lý, phù hợp với cơ cấu kinh tế, với nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội và xây dựng nông thôn mới của tỉnh từ năm 2021 - 2030.
Tổ chức thanh tra, kiểm tra, giám sát kết quả thực hiện công tác ĐTN cho LĐNT định kỳ 6 tháng và cuối năm, hoặc đột xuất theo yều cầu. Tổ chức đánh giá thực chất, phân tích toàn diện kết quả đạt được, cũng như những hạn chế, tồn tại, nguyên nhân để kịp thời chấn chỉnh, đề ra các nhiệm vụ, giải pháp đảm bảo thực hiện đạt mục tiêu, chỉ tiêu, nhiệm vụ hàng năm và cả giai đoạn…
* Bà Phạm Thị Mỹ Linh, Phó Chủ tịch Ủy ban MTTQ Việt Nam tỉnh: Nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền trong thực hiện Đề án ĐTN cho LĐNT
Thời gian qua, việc triển khai thực hiện Quyết định 1956 của Thủ tướng Chính phủ tuy được cấp ủy, chính quyền, Ban chỉ đạo và các ngành, các cấp quan tâm, nhưng Ban Thường trực Ủy ban MTTQ Việt Nam tỉnh nhận thấy công tác ĐTN cho LĐNT vẫn còn tồn tại nhiều khó khăn, bất cập.
Nguyên nhân chủ yếu là do công tác tuyên truyền ĐTN cho LĐNT ở một số nơi chưa đi vào chiều sâu; nội dung và phương thức tuyên truyền chưa thu hút rộng rãi người lao động, đoàn viên, hội viên tham gia; một số chính sách về ĐTN cho LĐNT đã lạc hậu, không phù hợp với thực tế; công tác dự báo nhu cầu đào tạo nghề, hỗ trợ việc làm và tiêu thụ sản phẩm cho nông dân chưa tốt. Chưa có cơ chế, chính sách gắn kết chặt chẽ các cơ sở giáo dục nghề nghiệp với doanh nghiệp, người sử dụng lao động; chưa lồng ghép tốt giữa các chương trình mục tiêu quốc gia đầu tư cho nông dân và nông thôn. Tâm lý ỷ lại cấp trên còn nặng và xã hội còn quá coi trọng bằng cấp, chưa coi trọng học nghề…
Để nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền, vận động đoàn viên, hội viên và các tầng lớp nhân dân trong tỉnh tích cực hưởng Đề án ĐTN cho LĐNT và góp phần thực hiện tiêu chí trong chương trình xây dựng NTM, cần tăng cường hơn nữa công tác tuyên truyền, phổ biến các chính sách phát triển sản xuất nông nghiệp; khuyến khích, vận động lao động trẻ tham gia học nghề để cải thiện sản xuất khu vực nông thôn, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng nâng cao thu nhập cho LĐNT, đặc biệt là lao động nữ.
Cùng với đó, nâng cao chất lượng công tác tuyên truyền, vận động sâu rộng trong đoàn viên, hội viên và các tầng lớp nhân dân về thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về công tác ĐTN cho LĐNT gắn với thực hiện Nghị quyết Trung ương 7 (khóa X) về “Nông nghiệp, nông dân, nông thôn”. Đồng thời, kịp thời biểu dương những điển hình trong việc nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả sản xuất nông nghiệp tăng thu nhập, tạo thêm việc làm cho LĐNT, gương người tốt - việc tốt, nhân rộng mô hình ĐTN gắn với xây dựng nông thôn mới đạt kết quả tốt. Tuyên truyền về quyền và lợi ích của người học, của cá nhân, tập thể khi tham gia vào hoạt động ĐTN cho LĐNT; lồng ghép trong công tác tuyên truyền gắn với các cuộc vận động, các phong trào thi đua yêu nước tại địa phương…
* Ông Lưu Phan Thịnh, Chi cục phó Chi cục Phát triển nông thôn tỉnh: ĐTN phải gắn với quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội của từng địa phương
Thực hiện Đề án ĐTN cho LĐNT, ngành Nông nghiệp đã ĐTN nông nghiệp cho khoảng 31.426 lao động, với 26.689 lao động có việc làm sau đào tạo, chiếm tỷ lệ 84,9%. Qua đó, góp phần nâng cao tỷ lệ lao động qua đào tạo của tỉnh từ 35% (năm 2010) lên 46,3% (năm 2015) và đến cuối năm 2020 ước đạt 63% trên tổng số lao động trong độ tuổi. Tuy nhiên, cùng những kết quả đạt được việc thực hiện Đề án 1956 cũng còn tồn tại một số khó khăn. Đó là lao động thuộc các đối tượng nghèo, cận nghèo ít tham gia học nghề, do họ là lao động chính trong gia đình nên phải làm kiếm thu nhập phục vụ cho sinh hoạt hàng ngày. Trong khi đó, mức hỗ trợ cho học viên tham gia các lớp dạy nghề còn quá thấp nên chưa khuyến khích lao động nghèo tham gia học nghề.
Phần lớn LĐNT sau khi học nghề nông nghiệp chủ yếu là tự tạo việc làm với quy mô sản xuất nhỏ, chưa liên kết trong sản xuất gắn với thị trường tiêu thụ, chưa có điều kiện làm việc trong những trang trại hay doanh nghiệp có quy mô sản xuất nông nghiệp lớn nên chưa phát huy được tay nghề đã học.
Đa số LĐNT tham gia học nghề nông nghiệp đều thiếu vốn mở rộng sản xuất, phát triển kinh tế gia đình sau học nghề (đặc biệt là các học viên thuộc đối tượng nghèo, cận nghèo), nên hiệu quả ĐNT chưa đáp ứng được yêu cầu giảm nghèo bền vững, số lượng học viên thoát nghèo chưa cao. Bên cạnh đó, một số cơ sở ĐTN còn thiếu giáo viên có bằng cấp chuyên môn trong lĩnh vực nông nghiệp, phải thuê giáo viên từ các trung tâm dịch vụ nông nghiệp, các trường cao đẳng, đại học trên địa bàn tỉnh.
Để phát huy hiệu quả công tác ĐTN cho LĐNT thì công tác ĐTN nông nghiệp phải gắn với quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội của từng địa phương, phù hợp với định hướng tái cơ cấu ngành Nông nghiệp; Đổi mới và nâng cao chất lượng đào tạo theo hướng sản xuất sạch, quy mô lớn gắn với nhu cầu thị trường, sản xuất ứng dụng công nghệ cao nhằm tạo ra sản lượng lớn, ổn định về năng suất và tăng thu nhập cho người lao động, hạn chế ô nhiễm môi trường; ĐTN cho LĐNT phải gắn với phát triển sản phẩm OCOP tại địa phương nhằm giải quyết việc làm cho LĐNT. Đồng thời tạo nên những vùng nguyên liệu tập trung và góp phần tạo sản phẩm đặc trưng của từng địa phương…
TÚ ANH (lược ghi)
- Trao 500 suất học bổng cho học sinh khó khăn nhân sự kiện chào mừng Bạc Liêu - Cà Mau hợp nhất
- Công bố và trao các nghị quyết, quyết định về sắp xếp đơn vị hành chính và kiện toàn bộ máy tỉnh Cà Mau
- Bạc Liêu long trọng họp mặt lãnh đạo qua các thời kỳ trước thềm hợp nhất với Cà Mau
- Treo cờ Tổ quốc chào mừng sự kiện hợp nhất tỉnh Bạc Liêu và tỉnh Cà Mau
- Bí thư Tỉnh ủy Bạc Liêu - Lữ Văn Hùng: Đưa bộ máy mới vận hành hiệu quả, tạo ra những đột phá mới